Cảm nhận bài
thơ:
CÁO TẬT THỊ CHÚNG
CÁO TẬT THỊ CHÚNG
Mãn Giác thiền sư.
Mỗi độ xuân về,
trong không khí se lạnh, nhìn những nụ mai đang chớm nở tôi nhớ
về sức sống của một nhành mai trong bài thơ “Cáo tật thị chúng” của thiền sư Mãn
Giác, đời Lý. Trải qua gần một ngàn năm, bài thơ Thiền này đã được nhiều học
giả nghiên cứu, chú giải nhưng chưa ai có thể khẳng định đã hiểu hết được tinh
thần, nội dung thâm thúy của bài thơ.
Không là một Phật tử, không thông hiểu về
Thiền tôi lại càng không thể phân tích, bình luận thơ Thiền. Nhưng bài thơ thật
sự mang đến cho tôi, một người trần tục, sự rung động về vẻ đẹp tâm
hồn con người, vẻ đẹp thơ ca thuần túy. Xin mạo muội ghi lại cảm nhận.
CÁO TẬT THỊ CHÚNG
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thương lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai./.
Dịch nghĩa:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thương lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai./.
Dịch nghĩa:
Có bệnh báo với mọi
người
Xuân qua trăm hoa
rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Sự đời diễn qua nhanh trước mắt
Trên đầu, cái già ngự trị
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Xuân đến trăm hoa nở
Sự đời diễn qua nhanh trước mắt
Trên đầu, cái già ngự trị
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm hôm qua, trước sân nở một
cành mai.
“Cáo tật thị chúng” đúng
ra là một bài kệ có vần điệu, các vị Thiền sư đọc cuối buổi thuyết pháp để tóm
tắt hay nhấn mạnh nội dung kinh Phật vừa giảng cho đệ tử. Bài kệ này Thiền sư
Mãn Giác nói với đệ tử khi lâm bệnh nặng, tuy ngắn nhưng thật hàm xúc vượt
lên tinh thần của một bài kệ, bay bổng thành một bài thơ lưu truyền đến ngày
nay.
Là Thiền sư tâm hồn luôn an trú trong hư không tĩnh lặng, thấu
hiểu qui luật muôn đời của tạo hóa, thấu hiểu qui luật đời người, luôn chịu sự
chi phối của vòng luân hồi sinh, lão, bệnh, tử.
Xuân qua trăm hoa
rụng
Trên đầu cái già đến rồi.
Xuân
đến trăm hoa nở
Sự
đời diễn qua nhanh trước mắt,Trên đầu cái già đến rồi.
Theo con đường của
Phật, giải thoát khỏi những tục lụy, lục dục thất tình, xem đời người là cõi
tạm, là ảo ảnh, có đó rồi mất đó “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô ”. Nhưng ta hãy
lắng nghe, trong câu thơ dường như có lời than thở:
Sự trục nhãn
tiền quá.
Lão tòng đầu
thương lai.
Sự đời qua nhanh
trước mắt, tuổi già đã đến rồi. Trong tác giả như có một sự nuối tiếc đời người
sao ngắn ngủi quá, phải không? Một cảm xúc rất thật, rất người. Đó là tâm lý
chung của con người khi nhìn lại quãng đời đã qua.
Cảm xúc tinh tế, thấu
thị của Thiền sư còn đọng lại trong câu thơ tuyệt diệu:
Mạc vị xuân tàn hoa
lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Đừng nghĩ xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm
qua sân trước một cành mai
Phương Danh
Thiểu nghĩ phải là một Thiền sư giác ngộ, hiểu được sự khôn
cùng, vi diệu của tạo hóa đồng thời phải là một con người yêu tha thiết cuộc
sống nhân gian mới ghi được hai câu thơ tuyệt mỹ như thế. Một nhành mai nở giữa
cảnh xuân tàn, mấy ai để ý, nhưng dướí huệ nhãn của
Thiền sư, nhành mai bổng hiện lên đẹp phi thường. Tác giả dùng từ “tạc dạ” rất
hay rất đắc, có nghĩa khắc vào đêm, làm tôn lên vẻ đẹp sự nổi bật của nhành mai
giữa đêm đen. Cho đến nay vẫn chưa một dịch giả nào có thể lột tả được hết vẻ đẹp này đúng như nguyên tác.
Về ý thơ, ở khổ thơ đầu tác giả
khẳng định một qui luật : xuân đến hoa nở, xuân đi hoa tàn . Ở khổ thơ cuối, tác
giả đặt lại vấn đề có vẻ trái với qui luật vừa khẳng định : không đừng
tưởng xuân tàn hoa rụng hết, đêm qua một cành mai vẫn nở, nở thật đẹp, thật nổi
bật giữa màn đêm u tối. Biết bao nhiêu thần ý thể hiện trong hai câu thơ này,
NHẤT CHI MAI trở thành một hình tượng bất
tử.
Phải chăng do cảm nhận được thông điệp sâu xa của bài thơ “Cáo Tật thị chúng”, năm 1967 nhân lễ Phật Dản 2511, giáo hội Phật Giáo Việt Nam đã lập lễ đài Hòa Bình tam cấp tại chùa Ấn Quang, cử hành trọng thể một tuần lễ Hòa Bình cho Việt Nam. Nhất Chi Mai, một nữ Phật tử, đã dũng cảm hy sinh thân mình tự thiêu làm ngọn đuốc sống kêu gọi hòa bình. Phải chăng hình tượng nhành mai nở giữ đêm xuân tàn trong "Cáo tật thị chúng" đã thôi thúc Nhất Chi Mai làm ngọn đuốc soi sáng sự vô mình của con người gây hận thù chiến tranh.Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã cảm xúc trước sự hy sinh cao cả của Nhất Chi Mai đã sáng tác bài thơ “Lửa, lửa và lửa” trong đó có hai câu thơ kết:
Phải chăng do cảm nhận được thông điệp sâu xa của bài thơ “Cáo Tật thị chúng”, năm 1967 nhân lễ Phật Dản 2511, giáo hội Phật Giáo Việt Nam đã lập lễ đài Hòa Bình tam cấp tại chùa Ấn Quang, cử hành trọng thể một tuần lễ Hòa Bình cho Việt Nam. Nhất Chi Mai, một nữ Phật tử, đã dũng cảm hy sinh thân mình tự thiêu làm ngọn đuốc sống kêu gọi hòa bình. Phải chăng hình tượng nhành mai nở giữ đêm xuân tàn trong "Cáo tật thị chúng" đã thôi thúc Nhất Chi Mai làm ngọn đuốc soi sáng sự vô mình của con người gây hận thù chiến tranh.Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã cảm xúc trước sự hy sinh cao cả của Nhất Chi Mai đã sáng tác bài thơ “Lửa, lửa và lửa” trong đó có hai câu thơ kết:
Sáng
trưng Hỏa Lệnh, bồ câu trắng
Sẽ đốt
Thời Gian mở lối về.
Từ một bài kệ mang tính giáo lý, “Cáo tật thị chúng” bay bổng cảm
xúc hoá thân thành một bài thơ, gợi mở bao ý tưởng cao đẹp cho người đời sau, lưu truyền gần một ngàn năm. Tác giả,
một Thiền sư trở thành thi nhân. Phải chăng đó chính là tầm vóc của một nhà sư
đã sống dung hợp giữa đạo và đời, giữa Thiền sư và thi sĩ. Đó là
đỉnh cao tư tưởng của Phật Giáo Việt Nam thời Lý : nhập thế./.